Bối cảnh Ý_xâm_chiếm_Ai_Cập

Libya

Xe tankette L3/33 của Ý

Cyrenaica (Libya) đã trở thành thuộc địa của Ý từ sau Chiến tranh Ý-Thổ Nhĩ Kỳ (1911–1912). Vùng đất này tây giáp Tunisia thuộc Pháp, đông giáp Ai Cập, nên người Ý đã chuẩn bị phòng ngự cả hai mặt trận, thông qua Tổng hành dinh Tối cao Bắc Phi dưới quyền Toàn quyền Libya, Thống chế không quân Ý Italo Balbo. Tổng hành dinh Tối cao có trong tay Tập đoàn quân số 5 của tướng Italo Gariboldi đóng ở phía tây và Tập đoàn quân số 10 của tướng Mario Berti đóng ở phía đông. Đến giữa năm 1940, mỗi tập đoàn quân có 9 sư đoàn chính quốc với khoảng 13.000 người, 3 sư đoàn Dân quân Tự nguyện cho An ninh Quốc gia (Áo đen) và 2 Sư đoàn Thuộc địa Libya, mỗi sư đoàn có 8.000 quân. Vào cuối những năm 1930, các sư đoàn lục quân Ý đã được tái tổ chức từ 3 trung đoàn giảm xuống còn 2, và lính dự bị được gọi tái ngũ trong năm 1939 cùng với những đợt tuyển lính nghĩa vụ thường lệ.[13]

Tinh thần chiến đấu của binh sĩ được coi là cao, và lục quân đã có nhiều kinh nghiệm hoạt động quân sự trong thời gian gần đó. Hải quân Ý phát triển mạnh dưới chế độ Phát xít, họ đã trả tiền mua những con tàu tốc độ nhanh, cấu trúc tốt và được trang bị mạnh, cùng với một hạm đội tàu ngầm lớn, nhưng hải quân lại thiếu kinh nghiệm và ít được huấn luyện. Không quân đã tiến hành chuẩn bị cho chiến tranh từ năm 1936 nhưng bị ngưng trệ và bị người Anh coi là không có khả năng duy trì tỷ lệ hoạt động cao. Tập đoàn quân số 5 có 8 sư đoàn đóng tại Tripolitania, nửa phía tây của Libya đối diện với Tunisia còn Tập đoàn quân số 10 với 6 sư đoàn bộ binh đóng giữ Cyrenaica ở phía đông. Khi chiến tranh bùng nổ, Tập đoàn quân số 10 triển khai Sư đoàn Libya số 1 Sibelle tại biên giới từ Giarabub đến Sidi Omar; Quân đoàn XXI từ Sidi Omar tới bờ biển, BardiaTobruk. Quân đoàn XXII di chuyển đến tây nam Tobruk để làm lực lượng phản công.[13]

Balbo được xem là người đánh giá cao về tác động của công nghệ hiện đại đối với chiến tranh hơn các đồng sự của mình. Ông ta cũng thấy rằng nước Ý chỉ có thể thắng lợi ở Bắc Phi bằng một đòn tấn công chớp nhoáng dựa trên yếu tố bất ngờ. Thế nhưng ngay trước khi chiến tranh mở màn, Balbo đã bày tỏ nghi ngờ của mình với Mussolini,

Không phải quân số làm tôi lo lắng, mà là vũ khí của họ... được trang bị hạn chế những khẩu pháo đã rất cũ, hầu hết đều thiếu vũ khí chống tăng và phòng không... có gửi hàng ngàn quân đi cũng vô dụng nếu chúng ta không thể tiếp tế cho họ những nhu cầu cần thiết không thể thiếu để di chuyển và chiến đấu.

— Italo Balbo[14]

Balbo yêu cầu tất cả các loại vật chất bao gồm 1.000 xe tải, 100 tàu chở nước, thêm nhiều xe tăng hạng trung và súng chống tăng. Đây là những vật chất cần thiết ở châu Phi nhưng Ý không thể sản xuất hay chuyển đến từ nơi khác. Tuy vậy Thống chế Pietro Badoglio, Tổng Tham mưu trưởng tại Rome vẫn cứ hứa. Theo Badoglio thì "khi có bảy mươi xe tăng hạng trung sẽ giúp giải quyết tình hình này", và Balbo liền chuẩn bị cho cuộc tấn công Ai Cập bắt đầu ngày 15 tháng 7.[15] Thế nhưng ngày 28 tháng 6 năm 1940, Balbo bị chết trong một vụ tai nạn bắn nhầm ở Tobruk, và Benito Mussolini liền cử Thống chế Rodolfo Graziani lên thay chức vụ Tổng tư lệnh và Toàn quyền Libya, và ra lệnh cho ông ta tấn công Ai Cập trước ngày 8 tháng 8. Graziani trả lời rằng Tập đoàn quân số 10 vẫn chưa được trang bị hợp lý và một cuộc tấn công như vậy là không thể nào thành công; nhưng Mussolini vẫn cứ lệnh cho Graziani phải tiến công.[16]

Ai Cập

Xe tăng Cruiser Mk I

Người Anh bắt đầu đóng quân tại Ai Cập từ năm 1882 nhưng đã giảm đi rất nhiều theo điều khoản của Hiệp ước Anh-Ai Cập 1936. Lực lượng nhỏ của Anh và Khối Thịnh vượng chung đồn trú tại kênh đào Suez và ven Biển Đỏ. Con kênh này mang ý nghĩa trọng yếu đối với việc liên lạc giữa nước Anh với các thuộc địa của nó ở Viễn ĐôngẤn Độ Dương. Giữa năm 1939, Trung tướng Archibald Wavell được chỉ định làm Đại tướng Tổng tư lệnh (GOC-in-C) của Bộ tư lệnh Trung Đông mới thành lập, phụ trách khu vực chiến trường Địa Trung Hải và Trung Đông. Cho đến khi Hiệp định đình chiến ngày 22 tháng năm 1940 giữa Pháp và phe Trục được ký, các sư đoàn Pháp tại Tunisia vẫn đối diện với Tập đoàn quân số 5 Ý ở biên giới tây Libya.[17]

Tại Libya, Lục quân Hoàng gia Ý có khoảng 215.000 quân còn ở Ai Cập người Anh có khoảng 36.000 quân, cùng với thêm 27.500 người đang huấn luyện tại Palestine.[17] Các lực lượng Anh bao gồm Sư đoàn Lưu động (Ai Cập) (thiếu tướng Percy Hobart), một trong hai đội hình thiết giáp huấn luyện của Anh mà vào giữa năm 1939 được đặt tên lại là Sư đoàn Thiết giáp (Ai Cập) (ngày 16 tháng 2 năm 1940, nó trở thành Sư đoàn Thiết giáp số 7). Biên giới Ai Cập–Libya được phòng ngự bởi Lực lượng Tiên phong Ai Cập và đến tháng 6 năm 1940, tổng hành dinh của Sư đoàn Bộ binh số 6 (thiếu tướng Richard O'Connor) đã tiếp quyền chỉ huy tại Sa Mạc Tây, với chỉ thị là đẩy lui quân Ý ra khỏi các đồn bốt tại biên giới và chiếm lĩnh vùng nội địa khi cuộc chiến bắt đầu. Sư đoàn Thiết giáp số 7 (thiếu Lữ đoàn Thiết giáp số 7) tập trung tại Mersa Matruh và điều Cụm Yểm trợ số 7 tiến về phía biên giới để làm lực lượng đảm bảo.[18]

Không quân Hoàng gia Anh cũng điều phần lớn máy bay ném bom đến gần biên giới hơn, và đảo Malta được tăng cường để uy hiếp con đường tiếp tế của Ý cho Libya. Tổng hành dinh Sư đoàn Bộ binh số 6, thiếu các đơn vị đầy đủ và được huấn luyện bài bản, đã được đổi tên thành Lực lượng Sa Mạc Tây ngày 17 tháng 6. Ở Tunisia, Pháp có 8 sư đoàn, chỉ có khả năng hoạt động hạn chế còn ở Syria có 3 sư đoàn được trang bị nghèo nàn và đào tạo kém, với khoảng 40.000 quân và lính biên phòng làm nhiệm vụ chiếm đóng đối phó thường dân. Các lực lượng Ý trên bộ và không quân tại Libya áp đảo mạnh quân Anh về số lượng tại Ai Cập nhưng tinh thần chiến đấu thấp và gặp bất lợi do trang bị kém hơn. Tại Đông Phi thuộc Ý, có thêm 130.000 lính Ý và lính châu Phi với 400 khẩu pháo, 200 xe tăng hạng nhẹ và 20.000 xe tải. Ý tuyên chiến với Đồng Minh vào ngày 11 tháng 6 năm 1940.[19]

Địa hình

Cuộc chiến diễn ra chủ yếu trên Sa mạc Tây, chiều rộng khoảng 390 km bờ biển từ Mersa Matruh (Ai Cập) đến Gazala (Libya), dọc theo Litoranea Balbo, con đường nhựa duy nhất. Địa mạo Biến Cát nằm sâu 240 km trong nội địa đánh dấu giới hạn phía nam của sa mạc tại nơi rộng nhất của nó là ở Giarabub và Siwa; theo cách nói của người Anh thì Sa mạc Tây trải rộng bao gồm cả miền đông Cyrenaica của Libya. Từ bờ biển mở rộng vào trong nội địa là một vùng đá sa mạc bằng phẳng cao khoảng 150 m trên mực nước biển, chạy sâu 200–300 km đến vùng Biển Cát.[20] Khu vực này có bò cạp, rắn và ruồi, và là nơi sinh sống của một số nhỏ dân du mục Bedouin.[21]

Người Bedouin đoàn kết tốt và có khả năng dễ dàng đi theo địa hình; chuyển hướng đi lại qua mặt trời, những ngôi sao, la bàn và "cảm giác sa mạc", họ nhận thức tốt về môi trường dựa vào kinh nghiệm. Khi quân Ý tiến vào Ai Cập trong tháng 9 năm 1940, Cụm Maletti đã bị lạc khi rời Sidi Omar, mất tích và phải dùng máy bay mới tìm ra được họ. Vào mùa xuân và mùa hè, ngày rất nóng còn đêm rất lạnh.[21] Gió Sirocco (Gibleh hay Ghibli) là một loại gió sa mạc nóng bỏng, thổi theo đám cát mịn làm giảm tầm nhìn đi còn vài dặm và phủ lên mắt, phổi, máy móc, thực phẩm và trang bị; những xe có động cơ và máy bay cần bộ lọc dầu đặc biệt mới chạy được, và đất đai khô cằn đồng nghĩa với việc đồ tiếp tế thức ăn phải được vận chuyển từ bên ngoài đến.[22]